This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Dưa leo nhiều công dụng

Ăn nhiều dưa leo gây lạnh bụng, đầy bụng, không tiêu, gây hư nhiệt. Dưa leo hơi khó tiêu nếu không nhai kỹ. Tránh ăn lúc trời mưa ẩm thấp, người mới ốm dậy. Trẻ em không nên lạm dụng dưa leo sống.

Thành phần trong 100g dưa leo như sau: nước (95%), đạm (0,8%), đường (3%), chất xơ (0,7%), canxi (23mg), phốt pho (27mg), sắt (1mg), vitamin A (0,3mg), vitamin B1 (0,03mg), vitamin B2 (0,04mg), vitamin PP (0,1mg), vitamin C (5mg). Ngoài ra còn có selen, lưu huỳnh, mangan, iod, kali, chất nhầy. 100g dưa leo cung cấp 16 calo.

Quả dưa nhỏ, vỏ càng xanh càng chứa hàm lượng biotin cao (chất bổ dưỡng da), hàm lượng vitamin C và selen cao hơn nhiều so với quả to. Vitamin C và selen tăng cường hệ miễn dịch, phòng chống bệnh tật. Vì vậy, các nhà khoa học khuyến cáo trong trồng trọt nên tăng số lượng quả, hơn là tạo quả to. Dưa leo thuôn dài dưới 20cm, cuống nhỏ có chất lượng tốt nhất.

Theo Tây y, dưa leo có tác dụng lọc máu, lợi tiểu, bài sỏi, hòa tan axít uric và muối urat, phòng chống bệnh thống phong (gút), an thần, hạ sốt, chữa một số bệnh ngoài da như: nếp nhăn, nứt nẻ, da mốc, tàn nhang, da nhờn. Để nuôi dưỡng da mặt, nên đắp dưa leo tươi. Vì giúp da mịn màng nhờ có chất “dung môi sinh vật” đẩy mạnh quá trình trao đổi chất, làm giãn mao mạch trong da dẫn đến tuần hoàn máu được thuận lợi.

Dưa leo nhiều công dụngTác dụng dưỡng da, chống khô da

Thức ăn khai vị: dưa leo thái lát mỏng. Gừng giã nhuyễn, cho nước sôi vào, chắt lấy nước gừng trộn với dưa leo. Còn dùng cho người sợ dưa leo lạnh gây đầy bụng.

Nước dưa leo: dưa leo 1 quả, táo 1 quả, nước chanh 20g, mật ong 20g, cà rốt 1 củ. Ép các loại củ quả rồi cho mật ong, nước chanh trộn đều. Món ăn nhiều sinh tố này bồi bổ sức khỏe mùa hè, chống mỏi mệt, uể oải.

Trẻ em bị lỵ mùa hè, do thấp nhiệt: 10 quả dưa leo non thái nhỏ, nấu với mật mía. Hoặc dưa leo muối nấu lấy nước, nấu cháo cho trẻ ăn.

Canh cho bệnh nhân bị thống phong (gút): dưa leo một quả, bỏ ruột thái mỏng, mộc nhĩ một nắm, muối 2,5g, dầu vừng 25g. Mỡ và xì dầu một ít vừa đủ. Xào mộc nhĩ trước, cho dưa leo sau, nêm gia vị.

Cháo thuốc chữa động kinh: lấy 50g dưa leo non đun lấy nước, cho 50g tiểu mạch vào, nấu cháo nhừ, thêm 15g đường phèn.

Lợi tiểu, tiêu phù: dưa leo thái lát, nấu sôi với ít dấm, ăn cả cái lẫn nước.

Súp dưa leo muối: dưa leo muối 200g thái lựu, thịt bò nạc 200g thái lựu, tỏi 3g, hành 3g, cần tây 10 gam, dầu ô-liu 5g, gia vị chanh tiêu. Món ăn ngon mát vào mùa hè.

Dưa leo làm mỹ phẩm: lấy 2 lát dưa leo nghiền nhuyễn, trộn thêm 1 lòng đỏ trứng cút, 1 thìa dầu ăn, 1 thìa mật ong, trộn đều thành hỗn hợp mịn dẻo, cho vào tủ lạnh nửa giờ. Trước khi đi ngủ, xoa lên mặt để 30 phút đến 1 giờ thì rửa sạch và để cho khô trước khi nằm. Tác dụng dưỡng da, chống khô da.

Quả dưa nhỏ, vỏ càng xanh càng chứa hàm lượng biotin, hàm lượng vitamin C và selen cao hơn nhiều so với quả to

Chữa hôi miệng do tỳ vị nhiệt: dưa leo gọt lấy vỏ nấu nước uống hàng ngày.

Chữa xơ vữa động mạch:

- Dưa leo 1 trái, cà chua 1 trái. Rửa sạch, xắt lát, thêm muối và đường trắng, dấm, trộn gỏi thì dùng.

- Dưa leo, đậu hủ ky ngâm nước 200g, bột năng, dầu ăn, hành hoa, gừng tươi sợi, tỏi lát, muối, bột nêm, nước tương, dấm, nước dùng với mỗi thứ vừa đủ. Đậu hủ ky cắt lát dài 4cm cho vào chén, phết lên bột năng, dưa leo xắt lát dài 3cm, rộng 1cm. Đổ dầu vào chảo, cho nóng, thêm đậu hủ ky chiên, vớt ra cho ráo dầu. Chừa dầu trong chảo, thêm gừng hành tỏi phi thơm, đổ dưa leo xào đến gần chín, thêm đậu hủ ky, thêm nước dùng, nêm muối bột nêm nước tương dấm, sau khi nấu sôi dùng bột năng làm xốt, rưới dầu mè thì dùng.

Chữa cao mỡ máu:

- Dưa leo 250g, nấm mèo đen ngâm nước 50g, dầu ăn, muối, hành hoa, gừng băm với mỗi thứ vừa đủ. Dưa leo xắt lát. Bắc chảo lên bếp, đổ dầu, hành, gừng phi thơm, thêm dua leo, nấm mèo đen đảo nhanh, thêm muối xào chín.

- Dưa leo 500g, đường trắng, dầu mè, muối, dấm trắng với mỗi thứ vừa đủ. Dưa leo móc bỏ ruột, xắt lát dài 5cm, rộng 2cm, cho vào tô, ướp muối 5 phút, chắt nước ra. Bắc chảo lên bếp, đổ nước dưa leo vào, đường, đun sôi cho đặc, thêm dấm, rưới lên dưa leo, ngâm 1 giờ thì rưới dầu mè.

Dưa leo nhiều công dụng

Chữa bệnh đái tháo đường:

- Dưa leo 250g, tỏi băm 30g, nước tương, dấm, dầu mè với mỗi thứ vừa đủ. Dưa leo xắt lát, chứa trong thau. Tỏi băm, nước tương, dấm, dầu mè làm xốt, trộn vào dưa leo làm gỏi.

- Dưa leo 500g, sữa đậu nành 250ml, tỏi băm vừa đủ. Dưa leo rửa sạch vỏ, ngâm trong nước ấm vài phút, xắt nhuyễn, vắt nước cốt, gạn lọc qua vải sạch, lấy nước. Sữa đậu nành đổ vào nồi đất, đun sôi bằng lửa vừa, trộn vào nước dưa leo, thêm tỏi băm một ít trộn đều. Dùng sáng và chiều.

Chữa tàn nhang:

Dưa leo 1 quả, xắt nhỏ, ép lấy nước, trộn với sữa chua thành kem bôi mặt. Mỗi lần 20 phút, 2 lần/ngày.

Chữa da mặt sạm, thô do bôi mỹ phẩm “dỏm”, ra nắng nhiều:

Dưa leo 2 quả, mướp 1 quả, xắt miếng ép lấy nước, cho mật ong vừa đủ thành một thức uống ngọt. Bã nhào nhuyễn với đậu phụ thành thuốc đắp 20 phút thì rửa sạch. Cách ngày một lần.

Giảm béo phì:

- Hàng ngày lấy khoảng 120g dưa leo tươi xắt miếng, trộn dầu dấm, gia vị để ăn như một món salat. Có thể kèm với giá đậu xanh sống, cà chua chín tươi sống, củ cải.

- Dưa leo 200g, bí đao 200g, sơn tra 50g, vỏ quýt tươi 30g, mật ong vừa đủ. Dưa, bí đao, sơn tra bỏ hạt, vỏ quýt xắt nhỏ. Ép lấy nước, hoà mật ong uống hàng ngày.

BS. NGÔ VĂN TUẤN

Mã đề nước hạ sốt

Mã đề nước còn có tên gọi khác là hẹ nước, vợi, là cây thủy sinh ở các ao, hồ nước nông, kênh rạch, bờ suối, ruộng trũng có nước quanh năm. Trong Đông y, vị thuốc từ mã đề nước gọi là trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, vào các kinh thận, bàng quang, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi niệu, long đờm...

Trạch tả thuộc cây thân thảo mọc dưới ao, hồ, ruộng nước, cây cao từ 0,5 - 1m, thân củ trắng hình cầu hay hình con quay có đường kính tới 6cm màu trắng mọc thành cụm, có nhiều rễ sợi. Lá có cuống dài, bẹ to mọc ở gốc hình trứng thuôn hay lưỡi mác, phía cuống hơi hẹp lại. Tán hoa ở đỉnh, nhiều hoa, hoa có cuống dài, lưỡng tính, 3 lá đài mầu lục, 3 cánh hoa mầu trắng hay hơi hồng, 6 bì, nhiều tâm bì rời nhau xếp xoắn ốc. Mùa ra hoa vào tháng 4 - 5. Quả bế chín vào tháng 6 - 7. Bộ phận dùng làm thuốc của trạch tả là thân rễ, thu hái vào mùa thu là tốt nhất, cạo hết rễ, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô.

Chữa phù thũng do thận: Lá trạch tả 30g, thân cây sậy 100g, râu ngô 100g. Sắc với 3 bát nước, còn 1 bát chia uống hai lần trong ngày. Uống sau bữa ăn trưa và tối. Dùng trong 7-10 ngày.

Hoặc trạch tả, bạch phục linh, trư linh, hạt mã đề mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Chữa ho do viêm họng: Lá trạch tả 30g, lá húng chanh 30g, gừng tươi 5g. Sắc khoảng 300ml nước còn 50ml. Uống trong ngày, nên uống khi thuốc còn ấm. Uống trong 5 ngày.

Chữa mụn nhọt sưng đau (chưa mưng mủ): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 15g. Rửa sạch, để ráo, giã nát đắp nơi mụn nhọt sưng đau. Ngày đắp 2 lần. Thực hiện trong 2 ngày.

Chữa chứng hoa mắt, chóng mặt do thiếu máu: Trạch tả 12g, sinh địa 15g, long đởm thảo, sơn chi tử, hoàng cầm, sài hồ, mẫu đơn bì, tri mẫu, cúc hoa, mỗi vị 10g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Hoặc trạch tả 15g, bạch truật 6g, cúc hoa 12g. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát, uống trong ngày. Dùng trong 7-10 ngày.

Chữa bỏng da thể nhẹ (vết bỏng nhỏ và nông): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 30g, rửa sạch, giã nát đắp hoặc chườm nhẹ nơi có vết bỏng. Ngày làm 2 lần. Bài thuốc này giúp giảm đau và nhanh hồi phục khi bị bỏng.

Giúp hạ sốt do cảm nóng: Lá trạch tả 20g, cỏ mần trầu 25g, lá tre 30g. Các vị thuốc trên đem sắc với 3 bát nước còn 1 bát. Uống trong ngày khi thuốc còn ấm. Dùng trong 2 ngày.

Hỗ trợ điều trị gan nhiễm mỡ: Trạch tả 20g, hà thủ ô (sống), thảo quyết minh, đan sâm, hoàng kỳ, mỗi vị 15g, sơn tra (sống) 30g, hổ trương 15g, hà diệp 15g. Sắc nước uống, ngày 1 thang.

Lương y Nguyễn Hùng

Rong biển làm thuốc

Tảo biển chứa đa dạng các thành phần dinh dưỡng như giàu iod, acid alginic, alginat, chất béo, chất đường, calci, phospho nên được sử dụng làm thực phẩm và làm thuốc.

Bộ phận dùng là toàn cây khô của một số loài tảo biển. Dược liệu sau khi lấy rửa bằng nước ngọt để loại muối và tạp chất; phơi hay sấy khô ở nhiệt độ thấp.

Vị đắng mặn, tính hàn; vào tỳ, can, thận, rong biển có tác dụng nhuyễn kiên tán kết, hoá đàm, lợi thủy tiết nhiệt. Trị viêm sưng hạch, lao hạch, bướu cổ, nấc, phù nề, viêm tràn dịch mào tinh hoàn. Liều dùng: 6 - 10g bằng cách nấu hầm, xào, pha hãm hoặc kết hợp thuốc khác.

Chữa lao hạch cổ:

Bài 1: tảo biển 12g, tằm vôi 6g. Sao chung, nghiền thành bột mịn. Dùng nước sắc bạch mai để làm hoàn. Chia uống 2 lần.

Bài 2: tảo biển 9g, thổ bối mẫu 9g, hương phụ 9g, hạ khô thảo 9g. Sắc uống.

Chữa phì đại tuyến tiền liệt gây bí đái ở người già: tảo biển 10g, xuyên sơn giáp 10g, lệ chi hạch 15g, quất hạch 15g, vương bất lưu hành 15g. Sắc uống.

Chữa lở ngứa ngoài da: tảo biển 16g, liên kiều 12g, ngưu bàng 8g, hạ khô thảo 8g, nga truật 8g, tam lăng 4g, trần bì 2g, bán hạ 2g. Sắc uống chia 2 lần trong ngày.

Món ăn thuốc có rong biển

Canh thịt nấu rong biển: tảo biển 300g, thịt lợn 100g (hoặc đậu phụ 200g). Thịt lợn băm nhỏ; rong biển đem ngâm nước gạo 1 đêm để khử mặn, rửa sạch, nấu chín tái, cắt đoạn, nấu tiếp cho chín nhừ, thêm thịt băm, dấm, gia vị và hành tươi. Dùng cho các trường hợp viêm tinh hoàn, sưng hạch, nấc cục, bướu cổ lành tính.

Vịt hầm rong biển: rong biển 120g, vịt 1 con. Rong biển ngâm rửa, luộc qua, cắt đoạn; vịt làm sạch, chặt miếng, thêm gia vị hầm nhừ. Một tuần ăn 2 lần. Dùng tốt cho người bướu giáp trạng lành tính (bướu cổ do thiếu iode).

Canh rong biển ý dĩ: rong biển 30g, ý dĩ 30g, trứng gà 3 cái. Rong biển ngâm, luộc, thái lát; ý dĩ nấu chín nhừ để sẵn. Cho dầu vào chảo, đun nóng, đập trứng gà vào, khuấy cho chín, cho canh rong biển ý dĩ vào, thêm gia vị thích hợp. Dùng tốt cho người tăng huyết áp, đau tức vùng ngực, người bệnh u bướu.

Rong biển hầm đậu phụ: rong biển 30g, đậu phụ 100g. Rong biển làm như trên, đậu phụ thái miếng; thêm gừng tươi đập giập và gia vị, dầu rán, hầm cách thủy. Ngày ăn 1 lần, liên tục 15 ngày. Dùng tốt cho người viêm xương hạch và đau khớp ở thanh thiếu niên.

Rong biển hầm củ cải: rong biển 300g, củ cải trắng 250g, thanh quả (quả trám) 50g. Củ cải thái lát, thêm gia vị cùng với trám nấu nhừ. Ăn ngày 1 lần, liên tục 7 - 10 ngày. Dùng tốt cho người viêm họng khô, viêm khí phế quản (thể viêm khô mạn tính, ho ít đờm, khi lạnh ẩm viêm họng, ho, đờm nhiều).

Rượu tảo biển: tảo biển 500g thái vụn, ngâm trong 1.000ml rượu, để sau 1 tháng lấy bỏ bã, chia 2 lần sáng, chiều; uống mỗi lần 20 - 30ml. Dùng tốt cho người viêm sưng hạch bạch huyết.

Kiêng kỵ: Người tỳ vị hư hàn dùng thận trọng.

BS. Tiểu Lan

Kha tử chữa bệnh đường ruột và thanh quản

Vỏ quả chứa tanin (acid galic, acid digalic, acid cachougalic, flobaphen...), polysaccharide, alloy, terchebin, chebutin. Trong hạt chứa dầu màu vàng nhạt. Tanin có tác dụng kháng sinh diệt khuẩn mạnh; alloy có hoạt tính kháng virut;  polysaccharide có tác dụng chống viêm họng, giảm ho nhanh như codein.

Theo Đông y, kha tử vị đắng chua chát, tính ôn; vào kinh phế và đại trường. Có tác dụng liễm phế, lợi yết, hạ khí, sáp tràng, chỉ tả. Trị tiêu chảy, lỵ kéo dài, hen suyễn, đau họng mất tiếng, di tinh, mồ hôi trộm. Ở Ấn Độ, kha tử dùng làm thuốc nhuận tràng, lợi tiêu hóa, bổ và phục hồi sức khỏe; thịt quả làm thuốc đánh răng chữa viêm loét lợi và chảy máu; kha tử phối hợp các dược liệu khác trị táo bón, rối loạn tiết niệu, bệnh tim... Liều dùng 6-12g. Chữa khản cổ thì dùng sống. Trị lỵ, tiêu chảy thì nướng cháy vỏ để dùng.

Kha tử trị hen suyễn, đau họng mất tiếng, tiêu chảy mạn tính, lỵ kéo dài, di tinh, mồ hôi trộm.

Kha tử trị hen suyễn, đau họng mất tiếng, tiêu chảy mạn tính, lỵ kéo dài, di tinh, mồ hôi trộm.

Một số bài thuốc trị bệnh có kha tử:

Trị phế hư, ho hen, khản tiếng

Bài 1 - Kha tử thanh âm: kha tử 12g, cát cánh 12g, cam thảo 8g. Sắc uống.

Bài 2: kha tử 4g, đảng sâm 4g. Sắc uống 3 lần trong ngày. Chữa ho lâu ngày.

Bài 3: kha tử 8g, hạt na rừng 8g, hạt tía tô 8g, hạt cải trắng 8g, sâm nam 8g, mạch môn 8g. Sắc uống. Chữa ho có đờm, suyễn thở lâu ngày.

Trị tiêu chảy lâu ngày, lỵ kinh niên, viêm ruột đại tiện ra máu, tiểu ra máu, băng lậu đới hạ

Bài 1: kha tử 12 quả. 6 quả để sống, 6 quả nướng bỏ hạt; sao vàng tán bột. Chữa xích bạch lỵ. Nếu lỵ ra máu, dùng nước sắc cam thảo để chiêu thuốc; nếu lỵ ra đờm thì dùng nước sắc cam thảo chích (tẩm mật sao) để chiêu thuốc.

Bài 2 - Bột kha tử: kha tử lượng vừa đủ, nướng bỏ hạch, tán thành bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8g, chiêu bằng nước cơm. Trị lỵ, tiêu chảy lâu ngày làm hao tổn chân khí.

Bài 3 - Chân nhân dưỡng tạng thang: kha tử 6g, đảng sâm 12g, bạch truật 12g, đương quy 12g, gừng nướng 6g, nhục đậu khấu 6g, thạch lựu bì 6g, mộc hương 6g, cam thảo 6g, nhục quế 4g. Sắc uống ngày 1 thang, chữa lỵ mạn tính.

Bài 4 - Kha tử kép: kha tử 12g, hoàng liên 6g, mộc hương 6g. Tán thành bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 4-8g, chiêu với nước. Chữa ngộ độc thức ăn do nhiễm khuẩn hay tiêu chảy mạn tính, lỵ mạn tính, đau bụng có sốt.

Bài 5: kha tử 6g, phòng phong 6g, trần bì 6g, mạch nha 6g, cát căn 2g, sơn tra 2g. Sắc uống. Trị trẻ nhỏ bị tiêu chảy.

Lưu ý: Kha tử chữa các bệnh mạn tính nên ho có đờm, tả, lỵ mới mắc không nên dùng. Khi điều trị bệnh đường ruột, liều nhỏ cầm tiêu chảy, nhưng liều lớn lại gây tiêu chảy.

TS. Nguyễn Đức Quang

Thuốc từ quả bầu

Thịt quả bầu vị ngọt, tính hàn, có tác dụng giải nhiệt, trừ độc, mát máu, chữa đái dắt, tiêu sỏi, trừ thủy thũng phù nề, mụn nhọt, tiêu khát (đái tháo đường) tiêu các loại viêm nhiệt ở phổi gây ho, tiêu chảy, tắc mật gây vàng da, tinh hoàn sưng đau... Lá vị ngọt, tính bình; hoa và tua cuốn có tác dụng tắm cho trẻ ngừa bệnh ngoài da (rôm sảy, sởi, mụn nhọt...). Hạt chữa răng đau lung lay, tụt lợi. Lá bầu gói thịt chó để nấu nướng, làm dịu bớt tính nóng của thịt chó.

Quả bầu là món ăn thông dụng trong ngày hè, cũng là vị thuốc phòng trị nhiều bệnh.

Bầu được dùng làm thuốc chữa các bệnh:

Đái dắt: quả bầu 50g, rau má 30g, râu ngô 10g, rễ cỏ tranh 20g. Sắc nước uống.

Bí tiểu tiện: quả bầu 200g, hành củ 5 củ cả lá rễ. Sắc nước uống.

Chữa phù thũng: dùng cả quả (vỏ thịt, hạt) sắc với dấm chua lấy nước uống.

Cổ trướng (báng nước): bầu tươi 50-100g đun nước uống. Hoặc phối hợp với vỏ bầu, vỏ bí đỏ, vỏ dưa hấu, vỏ mướp, nấu nước uống.

Viêm gan vàng da - sỏi thận - tăng huyết áp: bầu tươi 500g, giã nhuyễn, vắt nước trộn với 250g mật ong. Ngày uống 2 lần. Mỗi lần 30-50ml.

Chữa táo bón: quả bầu 50g, khoai lang 50g, đường đỏ 30g. Nấu nước uống 3 lần trong ngày. Nếu không đỡ uống liền 5 ngày.

Trị mụn nhọt tái phát hàng năm vào mùa hè ở trẻ em: trái bầu non nấu canh thịt heo nạc với lát gừng, cho trẻ ăn.

Sưng bìu dái căng bóng: trái bầu tươi nấu nước uống, ngậm rửa.

Thủy thũng phù cả mắt cá chân: vỏ quả bầu mới, sao tán bột. Ngày uống 8-10g với nước sắc trần bì lúc đói.

Tiêu chảy ra nước (nhiệt tả): vỏ bầu 1 nắm sao vàng sắc uống.

Đầy bụng không tiêu: vỏ bầu khô hầm trong nồi kín cho thành than tán mịn. Mỗi lần lấy 1 thìa to uống với nước ấm. Cho vài lát gừng càng tốt.

Đái tháo đường: vỏ bầu già khô nấu nước hoặc nướng giòn tán bột để uống.

Phế nhiệt sinh ho: bầu 50g, đun nước uống thay trà trong ngày.

Rong huyết sau đẻ: vỏ bầu già khô (lấy mảnh vỡ cũng được) đập nát đốt thành than tán bột. Uống với nước.

Bệnh ngoài da (lở ngứa, rôm sẩy), phòng sởi đậu ở trẻ em: dùng tua cuốn dây bầu nấu với nước để tắm rửa.

Giải thai độc: dùng tua cuốn và hoa bầu nấu nước uống.

Bổ thận chữa đau lưng: hạt bầu nấu canh bầu dục lợn để ăn cái uống nước.

Viêm lợi miệng, tụt lợi, răng lung lay, sưng mộng răng: hạt bầu 30g, đun nước ngậm, súc miệng.

Sản phụ thiếu sữa: hạt bầu bỏ vỏ sao vàng 40g, đậu đỏ 100g, gạo nếp 100g, nấu cháo ăn hàng ngày. Có thể hầm cùng móng giò lợn.

BS. Phó Thuần Hương

Thiên hoa phấn trị viêm họng

Thiên hoa phấn là tên thuốc của rễ cây qua lâu. Cây qua lâu còn có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua, dây bạc bát, người Tày gọi là thau ca. Qua lâu thuộc loại dây leo, có rễ củ thuôn dài như củ sắn, lá giống lá gấc, hoa đơn tính màu trắng, quả hình cầu, màu lục có sọc trắng, khi chín có màu đỏ.

Rễ qua lâu được thu hoạch vào mùa thu - đông, tốt nhất là sau khi thu hái quả được ít ngày. Rễ đào về, cạo bỏ vỏ ngoài, rửa sạch, cắt thành từng đoạn, rễ nhỏ để nguyên, rễ to bổ dọc, phơi hay sấy khô để làm thuốc.

Thiên hoa phấn.

Một số bài thuốc dùng thiên hoa phấn

Chữa viêm amidan mạn: Thiên hoa phấn 8g; sinh địa 16g; hoài sơn, huyền sâm, ngưu tất, mỗi vị 12g; sơn thù, trạch tả, đan bì, phục linh, tri mẫu, địa cốt bì, mỗi vị 8g; xạ can 6g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng 5-7 ngày.

Sốt nóng do viêm họng, miệng khô khát: Thiên hoa phấn 8g, rễ cây ké lớn đầu 8g, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống 1 lần trong ngày.

Chữa ho do nhiệt: Thiên hoa phấn 30g, gạo tẻ 100g. Sắc thiên hoa phấn, bỏ bã lấy nước, cho gạo vào nước thuốc nấu cháo ăn trong ngày, có tác dụng thanh phế, chỉ khát, sinh tân dịch... chữa ho do nhiệt hiệu quả.

Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Thiên hoa phấn 8g; thục địa, hoài sơn, mỗi vị 20g; đơn bì, kỷ tử, thạch hộc, mỗi vị 12g; sơn thù, sa nhân mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 10 ngày 1 liệu trình.

Hỗ trợ điều trị thấp khớp: Thiên hoa phấn, thổ phục linh, cốt toái bổ, kê huyết đằng, thạch cao, đơn sâm, sinh địa, rau má, uy linh tiên, hy thiêm, khương hoạt, độc hoạt, mỗi vị 12g; bạch chỉ 8g; cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 10 ngày 1 liệu trình.

Phụ nữ mới sinh sữa không xuống: Thiên hoa phấn đốt tồn tính, tán nhỏ, ngày uống 16-20 viên đến khi sữa xuống. Hoặc: Thiên hoa phấn, sài hồ, đương quy, xuyên sơn giáp, mỗi vị 8g; bạch thược 12g; thanh bì, cát cánh, thông thảo, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang.

Lưu ý: Không dùng thiên hoa phấn cho người có tỳ vị hư yếu, tiêu chảy, phụ nữ có thai.

Bác sĩ Thu Vân

Bạch đậu khấu trị nôn, tiêu hóa kém

Bạch đậu khấu chứa tinh dầu (borneol, campho, eucalyptol, pinen, caryophyllen, terpinen, carvon, sabinen...). Vị cay, tính nhiệt; vào kinh phế, tỳ và vị, bạch đậu khấu có tác dụng hành khí, hoá thấp, kiện vị, ôn vị, chỉ ẩu. Chữa chứng thấp trở trung tiêu, thấp ôn, ẩu thổ.

Liều dùng: 4 - 8g. Dùng dạng thuốc bột có tác dụng tốt hơn, uống 2 - 4g. Sau đây là một số bài thuốc có bạch đậu khấu.

Hành khí, giảm đau:

Bài 1 - thuốc Ngũ cách khoan trung: bạch đậu khấu 6g, hậu phác 8g, quảng mộc hương 4g, cam thảo 4g. Sắc uống. Dùng khi tỳ vị bị tổn thương, ngực bụng đầy trướng, khó tiêu, đàm tích, khí đưa ngược lên, đau do khí trệ.

Bài 2: bạch truật 9g, chỉ xác 8g, mộc hương 4g, bán hạ 8g, đại phúc bì 6g, nam tinh 8g, cam thảo 8g, đinh hương 4g, thanh bì 8g, can khương 6g, mạch nha 6g, thảo quả 4g, gừng tươi 3-5 lát. Sắc uống. Chữa bụng ngực đầy trướng, muốn nôn, đờm đưa ngược lên, không muốn ăn.

Hoá thấp tiêu bĩ: dùng khi tức ngực khó chịu, rêu lưỡi bẩn nhờn do thượng tiêu thấp trọc uất, khí cơ trở trệ.

Bài 1 - thang Tam nhân: bạch đậu khấu 6g, hạnh nhân 12g, ý dĩ nhân 20g, hậu phác 8g, hoạt thạch 16g, trúc diệp 12g, bán hạ 12g, thông thảo 8g. Sắc uống. Trị bệnh thấp ôn, tức ngực khó chịu, rêu lưỡi bẩn nhờn.

Bài 2 - Phổ tế tiêu độc ẩm: bạch đậu khấu 8g, hoạt thạch 24g, hoàng cầm 20g, mộc thông 10g, xạ can 8g, bạc hà 8g, hoắc hương 8g, nhân trần 20g, thạch xương bồ 12g, bối mẫu 10g, liên kiều 8g. Tán bột làm hoàn. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 10 - 12g. Tác dụng thanh nhiệt hóa thấp, tuyên thông khí cơ, giải độc. Chữa thấp nhiệt gây sốt nhẹ, tiểu tiện đỏ và sẻn, ngực tức, chân tay rã rời hoặc đại tiện nhão mà không thông sướng.

Ấm dạ dày, chống nôn: Dùng khi tỳ vị hư hàn, tiêu hoá không tốt, buồn nôn, nôn, ợ hơi đưa ngược lên.

Đậu khấu 20g, nghiền thành bột, thêm 1 thìa nước gừng sống làm hoàn. Mỗi lần uống 1 - 4g, chiêu với nước đun sôi. Trị dạ dày lạnh, nôn.

Bạch đậu khấu 12g, bán hạ 10g, quất bì 8g, bạch truật 10g, phục linh 10g, gừng sống 3 - 5 lát. Sắc uống. Trị đờm lạnh tích ở dạ dày gây nôn mửa.

Thang Bạch đậu khấu: bạch đậu khấu 6g, hoắc hương 12g, trần bì 6g, gừng sống 8g. Sắc uống. Trị nôn oẹ.

Bạch đậu khấu bột 4g, hãm với nước. Thuốc có tác dụng giải độc rượu, dùng cho người say rượu không tỉnh.

Kiêng kỵ: Người nhiệt, nôn, đau bụng không được uống.

Quả của một số cây khác cũng có tên đậu khấu:

Tiểu đậu khấu (Elettaria cardamomum Maton.).

Thổ đậu khấu (Alpinia sp.).

Thảo đậu khấu (Alpinia katsumadai Hayt.), cùng họ (Zingiberaceae).

Các loại quả này cũng được dùng như bạch đậu khấu; cần lưu ý khi dùng.

BS. Tiểu Lan

Khiếm thực

Mặt ngoài đã bỏ vỏ nhẵn màu trắng xám, mặt cắt ngang màu trắng ngà có tinh bột, không mùi, vị nhạt, đem phơi hoặc sấy khô, sao vàng , bảo quản dùng dần.

Theo Đông y, khiếm thực tính bình, vị ngọt, chát, có công dụng bổ tỳ, ích thận, cố tinh, được dùng làm thuốc bổ an thần, thuốc cho người cao tuổi, thân yếu, lưng đau, mắc chứng tiểu đêm. Khiếm thực phối hợp với các vị thuốc khác chữa mộng tinh, di tinh, hoạt tinh...Theo y học hiện đại, khiếm thực hàm chứa nhiều béo, chất bột, đường và các nguyên tố vi lượng có tác dụng bổ dưỡng, nâng cao sức khỏe.

Chữa viêm phế quản mạn tính, người già hư suyễn: Khiếm thực 50g, táo nhân 10g, cùi hồ đào 10g, gạo tẻ 100g. Khiếm thực đập dập, hồ đào nghiền cả vỏ. Các vị trên cho vào nấu cháo như bình thường, thêm đường phèn vừa đủ. Chia ăn ngày 2 lần.

Chữa thận hư, khí nhược, tiểu tiện đục: Khiếm thực 15g, phục linh 10g, gạo tẻ vừa đủ. Khiếm thực, phục linh giã nát, sắc trước với nước cho mềm, cho gạo vào nấu cháo. Ăn liền trong 5-7 ngày.

Chữa di mông tinh, mất ngủ: khiếm thực 10g, hạt sen 40g, phục thần 20g. Các vị đun nhỏ lửa cho mềm, thêm đường, bỏ bã phục thần, ăn hạt sen, khiếm thực, uống nước.

Chữa thận hư, di tinh, đái dầm, tỳ hư, đại tiện lỏng: khiếm thực 20g, hạt kim anh 15g, gạo lứt 100g, đường phèn vừa đủ. Hạt kim anh bỏ nhân cùng khiếm thực sắc lấy nước bỏ bã, cho gạo lứt vào nấu cháo, cháo chín, thêm đường vừa đủ, ăn trong ngày.

Chữa khí hư, thận hư, di tinh, tiểu không tự chủ: khiếm thực 30g, ngân hạnh 10g, gạo nếp 30g. Nấu cháo ngày 1 lần. 7-10 ngày là 1 liệu trình.

Chữa chứng tiểu đêm, lưng đau, gối mỏi, tỳ hư, ăn uống kém: khiếm thực sao vàng, tán bột mịn, ngày 2 lần, mỗi lần 8g, uống với nước sắc phá cố chỉ, ích trí nhân mỗi vị 6g.

Chữa thần kinh suy nhược, viêm ruột mạn tính: khiếm thực và kim anh tử hai vị bằng nhau, tán nhỏ, thêm mật hoàn viên. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 4 g.

Chữa các chứng tỳ hư bất vận, tiêu chảy lâu ngày không dứt, ăn uống kém, thiếu lực, cơ thể mệt mỏi: khiếm thực 30g, biển đậu 30g, liên nhục 30g, phục linh 30g, bạch truật 30g, sơn dược 30g, nhân sâm 8g, hạt ý dĩ 30g. Các vị trên tán bột mịn, ngày uống 2-3 lần pha với nước sôi, thêm đường cho dễ uống, mỗi lần 6g.

DS. Nguyễn Thị Hồng

Ba đậu trị táo bón, báng nước

Ba đậu còn gọi giang tử, mãnh tử nhân, lão dương tử, mắc vát, ba nhân. Ba đậu là hạt chín già khô của cây ba đậu (Croton tiglium L.), thuộc họ thầu dầu (Euphorbiceae). Ba đậu chứa dầu, chất protien, glucozid (crotonozit), albuminoza (crotin) rất độc, có alcaloid độc gần giống rixinin trong hạt thầu dầu…

Theo Đông y, ba đậu vị cay, tính nhiệt, độc nhiều; vào kinh vị và đại tràng.

Có tác dụng ôn thông hàn tích, tháo nước, tiêu thũng; chỉ tả sát trùng. Chữa các chứng táo bón do hàn tích, bụng nước cổ trướng, đàm tắc hầu tý, phế ung, tiêu chảy kéo dài do hàn, chàm ghẻ lở loét (ác sang giới tiên), ung nhọt sưng.

Liều dùng: 0,16g - 0,47g.

Chú ý: Ba đậu thuộc nhóm thuốc độc bảng A, nên khi chế biến và sử dụng, cần thực hiện đúng quy chế thuốc độc của Bộ Y tế. Cách chế ba đậu trong “Phương pháp bào chế Đông dược - Viện Đông y Trung ương”: Bỏ vỏ, giã cho nhỏ, bọc giấy bản, ép, thay giấy bản, lại ép đến khi nào dầu không thấm ra nữa thì thôi, sao qua cho vàng (ba đậu sương); liều dùng 0,02g - 0,05g/ngày. Loại ép hết dầu rồi sao đen, gọi là “hắc ba đậu”; liều dùng có thể đến 1g/ngày.

Ba đậu trị táo bón, báng nướcBa đậu (hạt chín già khô của cây ba đậu) là vị thuốc trị táo bón, thủy thũng, viêm niêm mạc dạ dày, đau bụng…

Nếu uống ba đậu vẫn không đại tiện được thì ăn thêm cháo loãng nóng. Nếu đại tiện mãi không thôi thì ăn cháo loãng nguội. Nếu ngộ độc, dùng hoàng liên, đỗ xanh đun sắc uống để giải độc.

Một số bài thuốc trị bệnh có ba đậu:

Ôn trường, thông tiện: Dùng khi tỳ hàn không vận, thức ăn tích trệ không tiêu, bí đại tiện. Dùng bài Hoàn tam vật bị cấp: ba đậu (bỏ vỏ và dầu), gừng khô, đại hoàng, liều lượng bằng nhau. Các vị nghiền chung thành bột, luyện với mật làm hoàn. Mỗi lần uống 0,8g - 1,2g, chiêu với nước đun sôi. Trị hàn tích táo bón, ngực bụng trướng đau, thổ gấp, cấm khẩu, đột nhiên ngã lăn quay.

Tháo nước tiêu thũng: Dùng khi bụng thuỷ thũng.

Bài 1: ba đậu, hạnh nhân, liều lượng bằng nhau, làm thành hoàn. Mỗi lần uống 0,4g - 0,8g, chiêu với nước đun sôi. Trị thuỷ thũng. Lưu ý trong khi dùng thuốc không được uống rượu.

Bài 2 - Hoàn ba giáng: ba đậu 12g (bỏ dầu), giáng phàn 63g. Hai vị làm thành hoàn. Mỗi lần uống 1g - 2g, ngày 1 lần. Trị bệnh sán máng (Schistosomiase) thời kỳ cuối, bụng có nước.

Trị viêm niêm mạc dạ dày, đau bụng:

Bài 1: ba đậu sương 1g, cát cánh 3g, bối mẫu 3g. Tán bột trộn đều. Mỗi lần uống 0,2g với nước ấm.

Bài 2: ba đậu sương 0,5g, nhục quế 3g, trầm hương 2g, đinh hương 3g. Tán bột. Mỗi lần uống 0,5 - 1g với nước ấm.

Kiêng kỵ: Vị này cay nhiệt, rất háo, có độc; người thể hư, phụ nữ có thai không được uống. Ba đậu sợ khiên ngưu.

TS. Nguyễn Đức Quang

Trị ho do lạnh, ngủ không yên với cây hồ đào

Theo y học cổ truyền, nhân hồ đào vị ngọt, tính ấm, bổ thận, cố tinh, nhuận phế, định suyễn, nhuận tràng, trị thận hư ho suyễn, eo lưng đau, chân yếu, dương nuy, di tinh, đại tiện táo, bí tiểu luôn. Vỏ cách vị đắng, tính bình, bổ thận, sáp tinh, trị thận hư di tinh, hoạt tinh, đái dầm. Vỏ ngoài quả và cành lá vị đắng, tính bình, trị sưng hết ngứa sần, ngứa da trâu (ngưu bì tiên), ghẻ ngứa.

Cây hồ đào ta gọi là cây óc chó, có tên trong vị thuốc Đông y gọi hồ đào nhục, hạch đào. Cây được trồng ở một số vùng biên giới như Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng. Là loại cây sống lâu năm, có thể cao tới 20m, lá kép lông chim lẻ, thường có từ 7 - 9 lá chét, mép nguyên, không cuống, hình trứng thuôn, khi vò ra có mùi hăng đặc biệt. Hoa đơn tính cùng gốc họp thành đuôi sóc. Quả hạch, bọc trong một lớp vỏ nạc, khi chín không nứt, hạch rất cứng màu vàng, trong có chứa hạt rất nhiều dầu. Bộ phận dùng: nhân, vỏ ngoài quả, lá cành, hạt.

Nếu dùng lá thì hái suốt mùa hè, tốt nhất vào tháng 6 - 7, chọn lá xanh phơi khô có màu lục, mùi thơm và đắng chát. Dùng nhân thì thu hái vào tháng 9 - 10, hái quả chín về bọc lấy vỏ ngoài phơi khô dùng. Hạch gồm nhân và vỏ cứng, phơi khô gọi hồ đào, hạch đào, lấy quả hạch, đập lấy nhân phơi khô gọi hồ đào nhân.

Cây và quả hồ đào.

Một số bài thuốc thường dùng

Bổ huyết, mạnh gân cốt, nhuận cơ thể: Hồ đào nhục 160g, bột bổ cốt chỉ 160g, đỗ trọng 160g, tỳ giải 160g. Tán nhỏ hoàn viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 20 viên lúc đói với nước đun sôi để nguội, dùng 15 ngày một liệu trình.

Tác dụng chắc răng, đen tóc: Hồ đào nhân sao qua, xuyên bối mẫu mỗi vị 160g. Tán nhỏ dùng hằng ngày 10g với nước ấm, dùng liền 2 tuần.

Bổ thận: Hồ đào cả vỏ 30 quả, thanh diêm 40g, bổ cốt chỉ, đỗ trọng mỗi vị 160g đem tẩm rượu sao, tỏi to 160g trộn nước gừng sao qua. Tất cả nghiền nhỏ rồi nhào thành cao cho ít mật viên như quả táo ta. Ngày uống 1 viên vào lúc đói với nước muối nhạt.15 ngày 1 liệu trình .

Trị cảm phong hàn người nóng không mồ hôi, đau đầu: Hồ đào nhục, trà búp, hành, gừng sống, mỗi vị 15g giã dập. Tất cả cho vào ấm đổ 500ml nước, sắc nhỏ lửa còn 250ml nước nước uống, đắp chăn ra mồ hôi là khỏi.

Trị ho do lạnh, ngủ không yên: Hồ đào nhục bỏ vỏ 40g, gừng sống 40g, hạnh nhân (bỏ vỏ, đầu nhọn) 40g. Nấu cô thành cao cho mật ong hoàn viên như quả táo ta. Mỗi lần nhai 1 viên, uống với nước gừng.

Trị đái buốt, đái rắt do nóng: Hồ đào nhục 100g, gạo 100g. Gạo tẻ ngâm cho nở đem nấu cháo ăn, ăn liên tục từ 5-7 ngày.

Do cơ địa khác nhau nên các vị thuốc có thể gia giảm cho phù hợp vì vậy khi áp dụng cần có sự tư vấn của thầy thuốc.

Bác sĩ Trần Thị Hải

Hồng đằng khử phong thông kinh lạc

Hỏi: Cây thuốc hồng đằng thường có ở đâu? Cây có công dụng gì?

(Trần Văn Quý - Đà Nẵng)

Trả lời: Hồng đằng còn gọi là thuyết đằng, đại hoạt đằng, hoạt huyết đằng, kê huyết đằng, đại huyết đằng, dây máu người.

Tên khoa học Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. et Wils (Holboellia cuneata Oliv.).

Thuộc họ Huyết đằng Sargentodoxceae.

Tên huyết đằng vì thân cây cắt ra có chất nhựa màu đỏ như máu (huyết là máu, đằng là dây), kê huyết đằng là dây máu gà.

Mô tả cây

Cây huyết đằng (Sargentodoxa cuneata) là một loại dây leo, thân có thể dài tới 10m, vỏ ngoài màu hơi nâu. Lá mọc so le, kép, gồm 3 lá chét, cuống lá dài 4,5 - 10cm, lá chét giữa có cuống ngắn, lá chét hai bên gần như không cuống. Phiến lá chét giữa hình trứng, lá chét hai bên hình thận, dài 7 - 11cm, rộng 3,5 - 6,5cm. Mặt trên màu xanh, mặt dưới màu xanh nhạt. Hoa đơn tính, khác gốc, mọc thành chùm ở kẽ lá, cụm hoa dài tới 14cm, mọc thõng xuống. Hoa đực màu vàng xanh, 6 lá đài, 6 cánh tràng thoái hóa thành hình sợi, 6 nhị. Hoa cái gần như hoa đực, nhiều lá noãn, bầu thượng. Quả mọng hình trứng dài 8 -10mm, khi chín có màu lam đen. Mùa hoa vào các tháng 3 - 4, mùa quả vào các tháng 7 - 8.

Cây kê huyết đằng (Milletia nitida Benth.) cũng là một loại dây leo, lá mọc so le, kép, thường gồm 5 lá chét, cuống lá dài chừng 3 - 5mm, phiến lá chét dài 4 - 9cm, rộng 2 - 4cm, lá chét giữa dài và to hơn các lá chét bên. Gân chính và gân phụ đều nổi rõ ở cả 2 mặt. Cụm hoa thành chùm mọc ở đầu cành hay ở kẽ các lá đầu cành, cụm hoa dài chừng 14cm. Trục cụm hoa có lông mịn, hoa màu tím, đài hình chuông, tràng hoa hình cánh bướm. Quả giáp dài 7 -15cm rộng 1,5 - 2cm, đầu quả hẹp lại và thường thành hình mỏ chim, trên mặt có phủ lông mịn màu vàng nhạt. Hạt 3 - 5, đường kính ước 12mm, màu đen nâu. Mùa hoa vào các tháng 9 đến tháng 1 năm sau.

Cây kế huyết đằng (Milletia dialsiana Harms). Cũng gần như cây trên, hoa màu hồng.

Phân bố, thu hái và chế biến

Những cây cho vị huyết đằng và kê huyết đằng ở Việt Nam hiện chưa được xác định chắc chắn thuộc vào mấy loài. Nhân dân chỉ mới căn cứ vào khi chặt thân cây có những đám nhựa màu đỏ giống như máu mà lấy về dùng

Những cây này được khai thác nhiều nhất tại các tỉnh Hòa Bình, Hà Tây, Cao Bằng, Lạng Sơn, còn thấy nhiều tỉnh miền núi khác nhưng ít được khai thác.

Huyết đằng và kê huyết đằng có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào các tháng 9 -10 chặt toàn cây về phơi khô, cắt bỏ lá cành, có nơi cắt thành từng đoạn ngắn hay miếng mỏng rồi mới phơi hay sấy khô.

Công dụng và liều dùng

Huyết đằng còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân. Nó được dùng từ lâu đời.

Đông y coi vị huyết đằng có vị đắng, tính bình có khả năng khử phong thông kinh lạc, đau bụng giun. Ngày dùng 12g - 40g dưới dạng thuốc sắc.

Kê huyết đằng có vị đắng tính ôn, có tác dụng bổ huyết, thông kinh lạc, khỏe gân cốt, dùng chữa đau lưng, đau mình, kinh nguyệt không đều. Ngày dùng 6 -12g dưới hình thức thuốc sắc hay ngâm rượu.

GS. ĐỖ TẤT LỢI

((Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam))

Cách dùng bưởi chữa ho, đau đầu

Các thành phần của cây bưởi còn được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, bưởi có tác dụng chống viêm rõ rệt thông qua cơ chế cải thiện mạng lưới vi tuần hoàn tại chỗ, ức chế quá trình ngưng kết tập tiểu cầu, chống phù nề, nâng cao sức bền thành mạch và sức chống đỡ của cơ thể với các tác nhân gây bệnh. Có tác giả cho rằng, dịch ép quả bưởi còn có chứa một chất giống như insulin có khả năng làm hạ đường máu.

Theo dược học cổ truyền, lá bưởi có vị cay, tính ấm, được dùng để chữa các chứng đau đầu do phong tà, viêm khớp dạng thấp thể hàn thấp, đau bụng do thực trệ. Cùi bưởi vị cay ngọt đắng, tính ấm, vào ba kinh tỳ, thận và bàng quang, có công dụng hóa đàm, tiêu thực, hạ khí và làm khoan khoái lồng ngực. Sách Bản thảo cương mục khuyên nên dùng lá bưởi và hành củ giã nát đắp vào huyệt thái dương (ở sau đuôi mắt 1 tấc, mỗi bên 1 huyệt) để trị chứng đau đầu do phong, lá bưởi và gừng tươi giã nát rồi trộn với một chút dầu trẩu đắp tại chỗ để điều trị viêm khớp cấp. Tinh dầu bưởi còn có tác dụng giải rượu và bôi lên các vùng tóc rụng để kích thích mọc tóc.

Cùi bưởi trắng chữa ho, trị đau bụng, ruột bưởi (múi) chữa nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt.

Cùi bưởi trắng chữa ho, trị đau bụng, ruột bưởi (múi) chữa nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt.

Dưới đây là một số bài thuốc thường dùng:

Chứng ho hen ở người già: cùi 1 quả bưởi, cạo bỏ phần trắng rồi thái vụn, cho vào bát cùng với một lượng vừa đủ kẹo mạch nha hoặc mật ong, hấp cách thủy cho nhừ, mỗi ngày ăn 2 lần, mỗi lần 1 thìa; hoặc cùi 1 quả bưởi rửa sạch thái chỉ, hãm với nước sôi uống thay trà trong ngày; hoặc ăn cùi bưởi thái vụn chưng với dầu hạt hoa mào gà.

Trị đầu đau nặng như đeo đá, buồn nôn, hoa mắt chóng mặt, lưỡi bệu, rêu lưỡi dày trắng và dính: múi bưởi 500g, mật ong 350g, đường trắng vừa đủ. Múi bưởi, ướp với đường trắng 1 đêm, hôm sau đổ vào nồi chưng kỹ rồi cho mật ong vào quấy đều, bắc ra để nguội rồi đựng trong bình kín để dùng dần, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 3g.

Trị đau bụng do lạnh: cùi bưởi 2 phần, trà 4 phần, thanh đằng hương 2 phần, tất cả đem sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g; hoặc dùng bài: cùi bưởi 12g sắc với 300ml nước còn 100ml, chia uống vài lần trong ngày.

Trị áp-xe vú: lá bưởi 15g, thanh bì 30g, bồ công anh 30g, sắc uống hàng ngày.

Thức ăn đình trệ, chậm tiêu: cùi bưởi, sa nhân, kê nội kim và thần khúc, lượng bằng nhau từ 4-6g, sắc uống.

Trị sán khí: cùi bưởi khô sao vàng 10g, sắc uống hàng ngày. Hoặc hạt bưởi 6-9g, sắc uống.

Phụ nữ mang thai nôn nhiều: cùi bưởi 4-12g, sắc uống.

Trị viêm loét ngoài da: cùi bưởi tươi lượng vừa đủ sắc lấy nước ngâm rửa.

Chữa các chứng đau dạ dày, đau tức ngực: hoa bưởi 2-4g, sắc uống, có tác dụng hành khí, tiêu đờm, giảm đau.

Trị đau đầu: ăn bưởi (múi bưởi tươi) đồng thời dùng lá bưởi và hành củ giã nát đắp lên huyệt thái dương.

Chữa chốc đầu: hạt bưởi bóc vỏ cứng rồi đốt cháy thành than, nghiền nhỏ rồi rắc lên vùng tổn thương, mỗi ngày 2 lần, liên tục trong 6 ngày.

DS. Khánh Mai

Cây thuốc, bài thuốc chữa trị viêm xoang

Điều trị chủ yếu là lợi thấp, thông khiếu kết hợp với thanh tiết đởm nhiệt...

Viêm xoang phân thành 2 loại theo tiến trình thời gian: viêm xoang cấp tính và viêm xoang mạn tính. Sự phân chia này dựa theo thời gian tồn tại triệu chứng của bệnh lý. Khi bệnh viêm xoang kéo dài khoảng 4 tuần và chấm dứt bệnh nhân được xếp vào trường hợp bệnh viêm xoang cấp tính. Nếu bệnh kéo dài trên 8 tuần được xem là viêm xoang mạn tính. Còn nếu bệnh chấm dứt trước 8 tuần hoặc sau 4 tuần thì gọi là bán cấp.

Viêm xoang theo nhiều nguyên nhân

Nhiễm khuẩn: không khí ô nhiễm, bụi, khói bếp, thuốc lá, ao hồ bẩn… không vệ sinh. Môi trường này chứa nhiều vi khuẩn nấm mốc. Vi khuẩn vào mũi gây viêm mũi và sau đó chuyển thành viêm xoang. Ngoài ra, viêm xoang còn do vệ sinh cá nhân kém, không thường xuyên vệ sinh cá nhân đầy đủ. Vi khuẩn sẽ vào mũi gây viêm mũi, sau đó viêm xoang.

Dị ứng: cơ địa dị ứng một chất nào đó, thường là hóa chất, thức ăn biển… làm cho niêm mạc mũi phù nề, gây bít tắc lỗ thông xoang, xoang bít tắc sẽ bị nhiễm trùng khi bị viêm xoang với nguyên nhân này, nên sử dụng thuốc chống dị ứng và cải thiện môi trường sống.

Cây thuốc, bài thuốc chữa trị viêm xoangKim ngân hoa

Thoái hóa niêm mạc thành polyp, liên quan đến nấm dị ứng. Cũng có trường hợp đặc biệt là viêm xoang do nhiễm trùng răng hàm trên. Vi khuẩn ở lỗ sâu răng đưa vào xoang gây viêm nhiễm tụ mũ rất hôi. Viêm xoang cũng có thể xảy ra do thay đổi áp lực đột ngột, nhất là khi bay lên cao và lặn sâu xuống nước quá nhanh. Ngoài ra, viêm xoang cũng có thể do chấn thương. Nhưng trường hợp này rất hiếm gặp.

Các loại thuốc thường sử dụng

Kim ngân hoa: có vị ngọt, tính hàn. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát khuẩn, dùng chữa viêm xoang. Ngoài ra còn chữa mụn nhọt, mẩn ngứa, phát ban, thấp khớp…

Ké đầu ngựa: còn gọi là thương nhĩ tử có vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính bình, có tác dụng tiêu độc, sát khuẩn trừ thấp. Dùng chữa viêm xoang, ngoài ra còn dùng chữa mụn nhọt, mẩn ngứa, đau răng.

Cây cứt lợn: còn gọi là hy thiêm thảo có vị đắng, tính hàn, có tác dụng trừ thấp, hoạt huyết, bổ huyết. Dùng để chữa viêm xoang ngoài ra còn chữa đau lưng, mỏi gối, tê liệt tay chân, nửa người.

Tân di: vị cay, tính ấm có tác dụng tán phong nhiệt trên, thông khiếu. Dùng chữa viêm xoang, ngoài ra còn trị ngạt mũi, nhức đầu phong, ngạt mũi khó thở, mọc nhọt trong mũi.

Rau diếp cá: còn có tên là ngư tinh thảo có vị chua, mùi tanh, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng, sát khuẩn. Dùng chữa viêm xoang, ngoài ra còn dùng chữa đinh nhọt, bí tiểu, kinh nguyệt không đều, viêm phổi,đau mắt đỏ…

Các bài thuốc chữa viêm xoang

Viêm xoang cấp tính: phải thanh phế nhiệt, giải độc là chính. Dùng bài thuốc với các vị thuốc: kim ngân hoa 16g, ké đầu ngựa 16g, chi tử 8g, mạch môn 12g, hy thiêm thảo 16g, ngư tinh thảo 16g.

Viêm xoang mạn tính: phải dưỡng âm, nhuận táo thanh nhiệt giải độc là chính. Dùng bài thuốc với các vị thuốc: sinh địa 16g, huyền sâm 12g, đan bì 12g, mạch môn 12g, kim ngân hoa 16g, ké đầu ngựa 16g, trần bì 8g, hoàng cầm 12g.

Các bài thuốc trên cho 750ml nước sạch sắc kỹ cho tới khi còn 250ml, chia đều thành 3 lần uống lúc thuốc còn ấm trong ngày.

Xì mũi đúng cách: xì mũi là phản ứng tự nhiên của cơ thể nhằm tống các chất ứ đọng, giúp lấy lại sự thông thoáng. Động tác này tuy đơn giản, nhưng nếu không đúng cách sẽ rất nguy hiểm vì có thể khiến tình trạng viêm xoang trở nên nghiêm trọng hơn. Mũi luôn tiết ra dịch. Chất nhầy từ các xoang chảy tới mũi cũng chứa dịch. Khi bị kích thích bởi một yếu tố (lạnh - ấm, hơi khí, bụi...), mũi và xoang sẽ tiết ra nhiều dịch đặc hơn, gây ứ đọng. Để giúp chất nhầy dễ thoát ra ngoài xoang, nên bịt một lỗ mũi, một bên thoáng, hơi cúi đầu, miệng ngậm, thở mạnh ra, xì từng bên một. Đổi bên và làm lại như vậy 2 - 3 lần cho sạch. Khi xì mũi, nên sử dụng khăn hoặc giấy vệ sinh che ở trước lỗ mũi nhằm ngăn các chất xì tung toé, làm bệnh lan truyền.Xông hơi nóng: tắm hơi nước nóng dưới vòi hoa sen, mỗi lần khoảng 5 - 10 phút. Hơi nóng có tác dụng làm thông xoang, thông mũi, cảm giác khó thở, đau nhức, cũng dịu lại. Thực hiện liên tục hằng ngày sẽ đem lại hiệu quả rất tốt. Ngoài ra, cũng có thể hít hơi nóng (xông hơi) bằng cách mua một ít là xông, trong đó có bạc hà về nấu, xông cả người haymúc ra một bát lớn nước, cho tinh dầu vào hít hơi nóng bốc lên.Rửa hốc mũi: nên chuẩn bị một vài lọ nước muối sinh lý 0,9% có bán tại các nhà thuốc để vệ sinh hốc mũi hằng ngày, việc này nhằm ngăn vi khuẩn thâm nhập sâu vào xoang trong, gây đau nhức, khó chịu. Nếu có điều kiện thì tự pha một thìa cà phê muối vào hai tách nước ấm, kèm theo một nhóm bicarbonat. Trước hết rót nước muối vào một bát đủ rộng, ngửa đầu ra sau, rồi bịt một bên lỗ mũi, hít nước vào lỗ bên kia, nhẹ nhàng xì mũi ra. Đổi bên và làm ngược lại.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

Chữa cảm sốt bằng cây cúc tần

Cây cúc tần còn gọi là cây từ bi, cây lức... có tên khoa học Pluchea indica Less thuộc họ cúc (Compositae). Ở nước ta cây mọc hoang và được trồng khắp nơi, thường trồng làm hàng rào cây xanh và lấy lá làm thuốc. Cây nhỏ cao 2-3m, cành gầy; lá gần giống hình bầu dục, hơi nhọn đầu, gốc thuôn dài, mép lá có răng cưa, mặt dưới có lông mịn, phiến dài 4-5cm, rộng 1-2,5cm. Toàn cây (lá, cành, rễ) đều có thể dùng làm thuốc. Lá thường dùng tươi (hái lá non và lá bánh tẻ) thu hái quanh năm, cành và rễ thường dùng khô, làm thuốc.

Trong toàn cây chủ yếu có tinh dầu mùi thơm đặc trưng. Theo y học cổ truyền: cúc tần có vị đắng, cay, thơm, tính ấm. Chủ trị cảm sốt ho, bụng trướng, nôn oẹ, tiêu độc, tiêu đờm, bí tiểu tiện, phong thấp, đau mỏi lưng. Dùng dưới dạng thuốc sắc (ngày uống 10-20g) hay thuốc xông. Dùng ngoài không kể liều lượng.

Chữa nhức đầu cảm sốt:Lá cúc tần tươi 2 phần, lá sả một phần, lá chanh một phần (mỗi phần khoảng 8-10g) đem sắc với nước, uống khi còn nóng. Cho thêm nước vào phần bã đun sôi, dùng để xông.

Cũng có nơi nhân dân dùng lá cúc tần phối hợp với lá bàng (có tính mát) và lá hương nhu, sắc uống có công dụng chữa cảm sốt.

Chữa đau mỏi lưng: Lấy lá cúc tần và cành non đem giã nát, thêm ít rượu sao nóng lên, đắp vào nơi đau ở hai bên thận.

Chữa chấn thương, bầm giập: Lấy lá cúc tần giã nát nhuyễn đắp vào chỗ chấn thương sẽ mau lành.

BS.Vũ Nguyên Khiết

Công dụng của dâu rượu

Hỏi:Có phải cây dâu rượu là loại lấy quả để ngâm rượu làm thuốc hay không?

(Trần Văn Nam - Hà Tĩnh)

Trả lời: Cây dâu rượu còn gọi là dâu tiên (Quảng Bình - Vĩnh Linh), giang mai, thanh mai (Trung Quốc), ko mak ngam, kom gam (Lào).

Tên khoa học Myrica rubra Sieb, et Zucc.

Thuộc họ Dâu rượu Myricaceae.

Tên thanh mai thường chỉ thấy ghi trong một số sách thực vật, có lẽ dựa theo tên Trung Quốc của cây. Trên thực tế điều tra trong nước, chúng tôi hầu như chưa thấy nơi nào nhân dân gọi cây này là cây thanh mai, mà thường chỉ gọi là cây dâu, cây dâu rượu hay cây dâu tiên. Cho nên chúng tôi chọn tên này là chính. Tên họ do đó cũng đổi lại là họ dâu rượu.

Mô tả cây

Cây nhỏ cao 0,4 - 0,5m nhưng cũng có thể cao tới 10m. Cành nhỏ thường có phủ lông tơ. Lá xanh tươi quanh năm, khi còn non hay ở những cành non thì có phiến lá to, hơi mềm, nhưng trên những cành già phiến lá nhỏ hơn và dai cứng. Phiến lá to dài 5 - 12cm, rộng 2 - 3cm, phiến lá nhỏ chỉ dài 2 - 3cm, rộng 8 - 10cm. Mép phiến lá non có răng cưa rõ, phiến lá già răng cưa không rõ. Cuống không rõ hoặc rất ngắn, dài 2 - 10mm. Hoa khác gốc: hoa đực gầy, thưa hoa, hoa cái mọc thành hình đuôi sóc dài 1 - 5cm. Quả đường kính 0,5 - 1cm, khi xanh có màu xanh, khi chín có màu đỏ tím, trên mặt rất nhiều gợn thoạt trông giống như quả kép của quả dâu tằm (có lẽ vì vậy mà nhân dân gọi là quả dâu). Hạch dày nước và cứng, mọng nước, màu tím đỏ rất đẹp. Mua hoa tháng 10 - 11, mùa quả 11 - 1.

Phân bố thu hái và chế biến

Cây mọc hoang tại nhiều tỉnh ở miền Bắc nước ta, nhiều nhất tại một số tỉnh miền Trung như: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Vĩnh Linh… Nhưng thường chỉ thấy ở Quảng Bình nhân dân khai thác dùng trong nước và xuất khẩu.

Còn thấy mọc ở Ấn Độ, Malaysia, miền Nam Trung Quốc, Nhật Bản.

Vào mùa quả chín (tháng 12 - 3) ở Quảng Bình nhân dân thu hái về (đặt nón vào phía dưới cây, tuốt quả cho rụng vào nón) phơi khô, sau đó đem đồ cho chín rồi phơi khô lại. Đồ như vậy để được lâu không bị mọt.

Công dụng và liều dùng

Dâu rượu được thấy ghi dùng làm thuốc đầu tiên trong “Khai Tống bản thảo” sau đến “Bản thảo cương mục” với tên giang mai.

Trong tài liệu cổ ghi giang mai có vị chua, ngọt, tính bình, có tác dụng lý khí, tán ứ, thanh thấp nhiệt.

Toàn năm có thể thu lấy vỏ rễ hay vỏ thân, dùng tươi hay khô. Vào mùa hạ thu lấy quả phơi khô. Chữa đau bụng, lỵ. Ngày dùng 8 - 12g vỏ khô sắc với nước uống trong ngày. Còn dùng chữa lở ngứa. Dùng vỏ thân hay vỏ rễ sắc nước rửa nơi lở ngứa.

Trong nước ta cho đến nay thấy ít được dùng làm thuốc. Thường đến mùa quả chín, trẻ con hái ăn hoặc bán để chế rượu uống. Quả chín hái về rửa sạch cho thêm ít đường, thêm ít men rựơu vào để trong vài ngày men rượu chuyển đường trong quả và đường thêm vào thành rượu, rượu này hòa tan các chất trong quả trong đó có các sắc tố anthxyan làm cho rượu có màu tím đỏ đẹp, vị hơi chua và ngọt trông như rượu vang. Có khi người ta mua quả về cho thêm rượu vào ngâm. Cũng có khi chế thành mứt.

(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)

của GS. ĐỖ TẤT LỢI



Thuốc hay từ hoa hồng

Có nhiều loại hoa hồng nhưng Đông y thường sử dụng hồng đỏ (mai khôi hoa) và trắng (hồng bạch) để làm thuốc. Hoa hồng là một vị thuốc thơm mát, không độc. Để làm thuốc người ta thường hái những đoá hoa mới nở. Khi hái hoa về, bỏ đài, cuống, phơi trong bóng râm cho khô rồi cất vào lọ kín, không phơi nắng để khỏi tan hương vị của hoa.

Theo y học cổ truyền, hoa hồng có vị ngọt, tính ấm, tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sưng. Hoa hồng đỏ (mai khôi hoa) dùng làm huyết mạch lưu thông, chữa kinh nguyệt không đều, đau ở vùng bụng dưới, vết sưng tấy, đinh nhọt và viêm mủ da, bệnh bạch cầu. Hoa hồng trắng chứa nhiều vitamin, đường, tinh dầu, dùng chữa ho trẻ em rất công hiệu, ngoài ra còn có tác dụng nhuận tràng.

Hỗ trợ điều trị tăng huyết áp: Hoa hồng bạch 9 - 15g, sắc uống hằng ngày hoặc hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà.

Chữa ho, khái huyết do phế hư: Hoa hồng bạch 15g, đường phèn lượng đủ dùng, sắc hoặc hấp uống hàng ngày, uống còn nóng. Uống liền 1 tuần.

Nếu trẻ em ho do lạnh có thể lấy cánh hoa hồng bạch còn tươi 15g, một quả quất chín (bỏ cuống), 1/2 thìa mật ong hoặc đường phèn. Cho tất cả vào chén nhỏ hoặc bát nhỏ, hấp cơm hoặc chưng cách thuỷ. Đem ra nghiền nát, trộn đều rồi gạn lấy nước cho trẻ uống nhiều lần trong ngày.

Chữa táo bón do nhiệt: Hoa hồng trắng còn tươi hoặc khô 20 - 40g, hãm với 100ml nước sôi trong 15 - 20 phút, có thể thêm 1/2 thìa mật ong hoặc đường, uống 2 -3 lần trước bữa ăn. Uống liền 10 ngày, có thể nhắc lại liệu trình mới.

Chữa mụn nhọt sưng tấy (chưa vỡ mủ): Hoa hồng trắng 20g rửa sạch, giã nát đắp lên mụn sẽ tiêu.

Chữa lở miệng do nóng: Ngâm bột hoa hồng đỏ 5g với 25ml rượu trắng trong 24 giờ. Đun nhỏ lửa cho rượu bay hơi, đến khi còn sền sệt thì cho thêm 30g mật ong vào đun nhẹ, khuấy đều rồi để nguội. Dùng tăm bông sạch thấm thuốc bôi vào chỗ đau, ngày 2 - 4 lần. Dùng liền 5 ngày.

Làm đẹp da mặt: Lấy 20g hoa hồng đỏ, rửa sạch cho vào chậu nước ấm để khoảng 10 đến 15 phút. Sau đó rửa mặt mỗi ngày giúp làn da căng mịn, sạch bụi bẩn. Cũng có thể lấy nước hoa hồng để tắm. Làm kiên trì, da sẽ mịn màng, tươi mát.

Lưu ý: Những người tỳ vị hư yếu hoặc có thai không được dùng. Cần chọn hoa hồng không có thuốc bảo vệ thực vật.

Bác sĩ Nguyễn Huyền

Một số thảo mộc giúp tăng hương vị thực phẩm

Có nhiều bằng chứng khảo cổ về sự dùng thảo dược làm gia vị từ rất lâu đời. Hạt giống của những loại thảo dược khác nhau xuất hiện trong các ngôi mộ của các vị vua Ai Cập. Người Hy Lạp và người La Mã cổ đại thường xuyên sử dụng các loại thảo mộc địa phương trong bữa ăn thường ngày và trong các bữa tiệc chiêu đãi.

Húng quế (Ocimum basilicum)

Đối với nhiều đầu bếp, húng quế được coi là vua của các loại thảo mộc. Húng quế tươi ngày càng được dùng phổ biến trong các món súp, thịt hầm và salad. Lá húng quế được trộn với pho mát Parmesan, dầu ôliu, tỏi và hạt thông để làm thành nước sốt pesto. Đối với các món ăn nóng, húng quế tươi thường cho vào sau cùng để giữ được hương vị của nó.

Húng quế tươi nên được gói trong khăn giấy ẩm và được lưu trữ trong tủ lạnh. Có thể sấy khô húng quế để dùng khi trái mùa.

Húng quế cung cấp lượng vitamin K, vitamin A, vitamin C, Mn, Mg… Flavonoid và tinh dầu dễ bay trong húng quế có tính chống oxy hóa, kháng virut và kháng sinh đáng kể, thậm chí có khả năng điều trị ung thư.Húng quế được dùng để điều trị ho, viêm phế quản, hen phế quản, trầm cảm, tiểu đường.

Húng quế được coi là vua của các loại thảo mộc.

Húng quế được coi là vua của các loại thảo mộc.

Nguyệt quế (Laurus nobilis)

Lá nguyệt quế hay còn gọi là lá bay thường được dùng tươi hoặc khô để làm tăng thêm hương vị cho súp, món hầm, món kho và nước sốt.

Khi còn tươi, hương vị của lá ít thơm hơn; khi sấy khô trong vài tuần, hương vị trở nên sắc nét hơn, vị đắng, thơm mùi hoa khô, giống như húng tây và rau oregano.

Trong nấu ăn, lá nguyệt quế thường được loại bỏ xác vì nó có hương vị mạnh, có thể gây kích thích đường tiêu hóa. Trong món Pháp, nó là thành phần trong bó hoa trang trí món ăn. Còn lại lá nguyệt quế được bỏ vào túi vải lọc khi nấu và bỏ đi phần bã.

Lá nguyệt quế là nguồn cung cấp vitamin C có tác dụng chống oxy hóa mạnh và tăng khả năng miễn dịch mạnh. Lá nguyệt quế còn giàu axit folic, quan trọng trong tổng hợp DNA; vitamin A cần thiết cho thị lực khỏe mạnh, tốt cho da và niêm mạc; vitamin nhóm B, niacin, pyridoxin, axit pantothenic và riboflavin… góp phần tổng hợp các enzyme, điều hòa trao đổi chất và cải thiện chức năng hệ thần kinh.

Khoáng chất trong lá nguyệt quế bao gồm kali (giúp kiểm soát nhịp tim), calci (giúp xương chắc khỏe), sắt (tăng sản xuất hồng cầu), mangan, đồng, selen, kẽm và magie...

Tinh dầu lá nguyệt quế được dùng để điều trị viêm khớp, đau cơ, bầm tím và sưng, giảm các triệu chứng của cúm, viêm phế quản và điều trị gàu, ngoài ra còn có tác dụng giảm đau đầu và hạ đường huyết.

Bạch hoa (Capparis spinosa)

Cây bạch hoa phổ biến ở vùng Địa Trung Hải, Ai Cập, Bắc Phi, đảo Madagascar, Trung Á...

Nụ bạch hoa thường được dùng làm gia vị và trang trí nước sốt mì ống, thịt, cá, salad, súp và bánh pizza...

Nụ bạch hoa có lượng calo thấp (100gr cung cấp 23calo), có chứa nhiều chất chống oxy hóa như vitamin A, vitamin K, niacin, và riboflavin. Chứa các khoáng chất calci, sắt và đồng. Tuy nhiên, nụ bạch hoa muối bán sẵn thường chứa quá nhiều natri.

Nụ bạch hoa có tác dụng bổ dưỡng, giảm đau, trừ đờm, lợi tiểu, co mạch. Được dùng để trị viêm khớp, chấn thương bầm tím, thiếu máu, làm dịu bệnh gút và cải thiện chức năng gan.

Hành tăm (Allium schoenoprasum)

Với hương vị cay thơm tinh tế, lá hành tăm thường được cho vào các món như trứng tráng, khoai tây và cá. Tại Pháp, hành tăm là gia vị chủ yếu. Ngoài ra, các đầu bếp Ba Lan, Thụy Điển cũng thường sử dụng chúng vào trong các món phô mai, bánh crepe, súp, bánh mì và nước sốt… Ở Việt Nam, vùng Nghệ An, Hà Tĩnh cùng ưa chuộng loại rau gia vị này.

Hành tăm cũng như các thành viên khác trong gia đình allium (hành, tỏi) đều là dược liệu tuyệt vời. Hành tăm đã được chứng minh tính kháng khuẩn, kháng virut, chống lại cảm lạnh và cúm. Các flavonoid trong hành tăm có thể điều hòa huyết áp, các hợp chất sulfide có thể giúp hạ lipid máu - cả hai yếu tố này giúp ích cho sức khỏe tim mạch. Hành tăm có tác dụng chống viêm, có thể làm giảm nguy cơ viêm khớp dạng thấp. Do chứa nhiều vitamin E nên hành tăm có tác dụng chống oxy hóa, tăng cường hệ thống miễn dịch, thậm chí còn được sử dụng để ức chế sự phát triển của các khối u trong trường hợp ung thư thực quản, dạ dày, đại tràng và tuyến tiền liệt.

Mùi tây (Anthriscus cerefolium)

Mùi tây là loại gia vị cổ điển của ẩm thực Pháp trong nhiều thế kỷ. Mùi tây không thể thiếu trong các món súp và salad bởi nó sở hữu một hương vị tinh tế, không làm át đi hương vị của các thành phần khác.

Mùi tây giàu khoáng chất, bao gồm calci, kali, phospho, selen, mangan và magie và các vitamin A, C và D. Lá già chuyển sang màu tím, chứa ít chất dinh dưỡng hơn, vì vậy, nên ăn phần lá non xanh.

Ngày nay, mùi tây được biết đến là một nguồn chất chống oxy hóa tuyệt vời, giúp ổn định màng tế bào, chống viêm loét dạ dày tá tràng và viêm xoang. Mùi tây để sử dụng làm thuốc rửa mắt, giảm đau bụng kinh, làm thuốc bổ trường xuân làm trẻ hóa cơ thể, thư giãn tinh thần; điều trị ho, đầy hơi, tăng huyết áp, trầm cảm, rối loạn bệnh tiêu hóa. Lá tươi giã nát, đắp trực tiếp vào vết thương, vết côn trùng cắn, vết bỏng, nơi khớp sưng đau để làm dịu, chống viêm và làm lành thương tổn.

Ngoài các loại thảo mộc kể trên, còn rất nhiều loại gia vị khác được dùng trong nhà bếp. Ngoài việc làm tăng hương vị cho món ăn, chúng còn có nhiều tác dụng hữu ích cho sức khỏe.

Tiến sĩ - Lương y: Phùng Tuấn Giang (Chủ tịch Viện Nghiên cứu phát triển y dược cổ truyền Việt Nam)

Diếp cá tán nhiệt, tiêu ung

Cây diếp cá tên khác là cây lá giấp, ngư tinh thảo. Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây tươi hoặc đã làm khô. Cây tươi có mùi tanh như cá. Theo Y học cổ truyền: diếp cá vị cay, tính hơi ôn, vào kinh phế, có công dụng: thanh nhiệt giải độc, bài niệu thông lâm, chủ trị tụ máu, đau mắt, trị phế ung, nhọt lở, nhiệt lâm, tiểu tiện đau buốt.

Diếp cá

Diếp cá

Theo nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy dịch chiết diếp cá tươi có tác dụng ức chế các loại tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn dung huyết, phế cầu khuẩn, trực khuẩn bạch hầu, trực khuẩn coli, leptospira, nấm, virut cúm. Nước sắc diếp cá có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch: có tác dụng chống viêm, giảm ho và lợi tiểu. Sau đây là một số bài thuốc điều trị từ cây diếp cá (dùng khô) sắc uống để bạn đọc ttham khảo:

Trị viêm đường tiết niệu: diếp cá 30g, xa tiền tử 20g, kim tiền thảo 40g, sắc uống.

Chữa viêm phổi: diếp cá 20g, thạch cao 40g, kim ngân 20g, lô căn 20g, liên kiều 20g, hạnh nhân 12g, hoàng liên 12g, hoàng cầm 12g, ma hoàng 8g, cam thảo 5g. Thạch cao sắc trước 15 phút; hoàng liên giã dập, cho các vị thuốc vào sắc uống làm 2 lần trong ngày.

Gia giảm: Nếu khó thở, thêm đinh lịch tử 12g, tang bạch bì 12g; Nếu ho ra máu, thêm bạch mao căn 12g.

Chữa viêm xoang: diếp cá 20g, thạch cao 40g, kim ngân hoa 16g, tân di 12g, hoàng cầm 12g, chi tử 12g, tri mẫu 12g, mạch môn 12g. Thạch cao sắc trước 15 phút, sau đó cho các vị thuốc vào, sắc uống. Ngày uống 1 thang.

Gia giảm: Nếu bệnh nhân sốt, sợ lạnh, nhức đầu thì bỏ hoàng cầm, mạch môn, thêm ngưu bàng 12g, bạc hà 12g.

Trị viêm khí phế quản, nóng sốt ho nhiều đờm: diếp cá 60g, tỳ bà 20g rửa sạch, ép lấy nước, thêm nước ép bí đao 100ml. Hòa chung, uống trong ngày.

Chữa viêm phổi cấp, viêm đường tiết niệu, sốt nóng, ho, tiểu dắt, tiểu buốt, nổi ban dị ứng: diếp cá 30g, kim ngân hoa 15g, bạch mao căn 30g, liên kiều 15g. Sắc uống trong ngày, có thể thêm đường cho dễ uống.

Trị tiểu tiện nóng rát, tiểu tiện đục thuộc chứng nhiệt: diếp cá 30g, sắc uống.

Trị trĩ ngoại: diếp cá 30g, sắc uống kết hợp xông, rửa tại chỗ.

Hỗ trợ điều trị ung thư phổi thủy thũng: diếp cá 20g, hoàng kỳ 20g, đình lịch 6g. Sắc uống thay trà.

Hoặc dùng bài: diếp cá 30g, nấu 15 phút, bỏ bã, thêm đậu đỏ 60g, đun chín mềm, thêm đường, ăn cái, uống nước.

Trị ung thư phổi: diếp cá 30g, thiết thụ diệp 30g, bát nguyệt trác 30g, phục linh 15g, hoàng kỳ 20g, bạch truật 20g, trần bì 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Hoặc dùng bài: diếp cá 20g, phật nhĩ thảo 20g, hạnh nhân 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

ThS. Phạm Minh Dương